Phát sinh chủng loài Họ Cò quăm

Sắp xếp truyền thống như trong phân loại trên đây, coi cò quăm và cò thìa như là hai phân họ chị-em (Threskiornithinae và Plateinae) là một điều không thuyết phục. Chính xác thì các loài cò thìa không phải là nhóm chị-em với toàn thể các loài cò quăm. Thay vì thế, cò thìa có quan hệ họ hàng gần gũi nhất với nhóm cò quăm thuộc chi Threskiornis và có thể là cả với Pseudibis. Luận văn thạc sĩ của Krattinger (2010)[5] chỉ ra thực tế này một cách rõ ràng. Chesser và ctv. (2010)[6] cũng đưa ra quan điểm phù hợp với ý tưởng này, và nó cũng đã từng xuất hiện trong Sibley và Ahlquist (1990; hình 367)[8]. Tuy nhiên Sibley và Ahlquist lại không đưa ra bình luận gì về điều này, có lẽ là do họ cho rằng điều đó là không thể tin được.

Đáng chú ý là còn có các gợi ý khác cho thấy cò thìa không nên được coi là phân họ riêng biệt. Matheu và del Hoyo (1992)[9] có đề cập rằng người ta đã biết rằng cò thìa châu Âu (Platalea leucorodia) lai ghép được với cò quăm đầu đen (Threskiornis melanocephalus). Thật không may là họ lại không kết nối điều này với các kết quả của Sibley và Ahlquist.

Krattinger (2010)[5] cũng ước tính các khoảng thời gian rẽ nhánh ra. Các kết quả của ông gợi ý rằng nhánh cò thìa đã phát sinh khoảng 15 triệu năm trước (với sai số lớn). Khoảng thời gian này là quá đủ để tiến hóa ngay cả kiểu mỏ rất khác biệt. Các loài chim hút mật Hawaii (Drepanidinae) đã tiến hóa các kiểu mỏ của chúng chỉ mất một nửa khoảng thời gian này[10].

Krattinger cũng phát hiện sự phân chia sâu trong họ Threskiornithidae, nhưng là giữa các chi cò quăm thuộc Tân thế giới (Eudociminae) với phần còn lại (Threskiornithinae), chứ không phải giữa cò quăm với cò thìa. Việc sắp xếp lại như các phân họ này nhấn mạnh sự thay đổi cơ bản trong phân loại cò quăm và cò thìa.

Krattinger (2010)[5] chỉ kiểm tra DNA từ trên một nửa số loài trong họ Threskiornithidae nên vị trí chính xác của một vài chi thuộc Cựu thế giới vẫn chưa được giải quyết triệt để (Bostrychia, Lophotibis, Nipponia), nhưng cây phát sinh dưới đây là diễn giải hợp lý cho những gì mà Krattinger đã tìm thấy. Cây phát sinh này cũng phù hợp với các kết quả của Chesser và ctv. (2010)[6] và Sibley và Ahlquist (1990)[8]. Dấu hỏi bên cạnh tên chi là để lưu ý rằng chi đó đã không được lấy mẫu.

 Threskiornithidae 
Eudociminae 

Eudocimus

Cercibis

Mesembrinibis

Phimosus

Theristicus

Threskiornithinae 

Plegadis

Nipponia

Lophotibis

Geronticus

Bostrychia

Platalea

Pseudibis

Threskiornis